Mấy tháng trước khi nói chuyện đi tôi đùa với mấy đứa chỗ làm là New York chưa từng nằm trong bucket list nhưng Nuuk-York thì có. Một đứa nói coi chừng mấy thứ look-a-like, sound-a-like hay gây chết người. Không chết thì cũng bị...thưa như mấy hãng bảo hiểm nghề nghiệp hay khuyến cáo.
Nói hoài mình "gà" nên nhát, lại hay nghe lời. Bỏ Nuuk. Đi York. Giờ ngồi đây nhớ chuyện "Ở đây có bán cá tươi".
York lọt ở giữa chuyến đi. York ấm hơn Edinburgh và những nơi đã qua ở phía Bắc nhưng lạnh hơn London. Mưa nhiều như cả xứ UK.
Hôm qua ngồi trên bus về nhà tôi nghĩ may mà bữa trước mình không cancel chỗ airbnb này. Đó giờ một khi book chỗ nào tôi hiếm khi thay đổi, chẳng hiểu sao mấy bữa trước có ý định. "Nhà" có hai tầng, nằm trên dãy phố cách trung tâm 15 phút đi bus. Đó giờ tôi hay làm biếng nói chi tiết chỗ ở nhưng chỗ này không nói không yên. Cách trưng bày trong nhà rặt Anh từ cửa bước vào. Những tấm gương khắc chạm trổ gì gì mà chẳng tấm nào đơn giản hình chữ nhật như vẫn thường thấy ở nhà. Bình lọ văn hoa khắp nơi, chỗ nào có khoảng trống là có kê bàn ghế, có đèn có lọ hoa hay vật trang trí. Ghế thêu chưng khắp nhà. Khiêng valy lên đã đụng lắc lư một cái bình trắng chạm hoa, mém rớt. Bậc thang lót thảm, giữa mỗi bậc là thanh kim loại kềm cho thảm khỏi xê dịch. Nhà rộng không biết mấy phòng nhưng chủ nhà báo cáo khi đón tôi ở cửa bà có bảy đứa con. Đã dọn ra gần hết. Cửa phòng nhiều vô số. Tôi luôn tự hào trí nhớ mình chưa tệ lắm nhưng bà vừa dẫn lên phòng vừa chỉ nhà tắm toilet, mười phút sau tôi đã lạc. Kiểu này chẳng ai nhắc tự nhiên mình đi nhẹ bước khẽ dịu dàng hơn bình thường trăm lần.
Thường khi đến một nơi mới sau khi check-in tôi sẽ đi một vòng những con đường chung quanh. Giờ đã thành thói quen. Như khi dọn về nhà mới đi lòng vòng làm quen với hàng xóm vậy. Hàng xóm ở York là một dãy phố "quê" chưa hơn một cây số. Gọi quê vì người ở đây ăn mặc xềnh xoàng, nhìn hơi nghèo vì là xóm lao động. Tôi đoán qua quang cảnh chung quanh. Ba supermarket nhỏ tên chưa từng nghe. Một tiệm bán rau cải, mấy tuần rồi mới thấy một loạt các tray trái cây giá 1pound. Dâu, nho, táo, cà tây.. Ba tiệm bán đồ cũ, quần áo cũ. Hai tiệm bánh mì. Một tiệm bán đồ gia dụng. Hai chỗ bán mắt kiếng. Hai pharmacy. Ba quán cà phê. Vài tiệm bán đồ linh tinh khác. Còn cắt tóc, beauty salon... đếm sơ sơ gần mười tiệm. Ngạc nhiên ha. Và một điều đặc biệt Domino's ở đây mình order họ mới nhồi bột (dough đã có sẵn khi mình mua họ mới nhồi thành base).
Còn trên phố? Trung tâm York được bao bọc bởi một dãy tường thành, City Wall, cao hơn mặt đường mấy mét, có từ thời La Mã. Ăn trưa xong cách hay nhất là đi một vòng City Wall. Phía bên ngoài tường là những con đường rộng đầy xe bus xe tour xe đủ loại, những gallery, bảo tàng, nhà hát. Bên trong vòng thành là chi chít những con đường nhỏ hẹp, hầu hết tên đường có thêm chữ gate. Stonegate, Swinegate, Jubbergate... Tựa như các "Hàng..." ở Hà Nội.
Tại sao đều là gate thì chưa tìm hiểu, tự suy ra có lẽ ngày xưa mỗi con đường dẫn ra đến một cổng. Còn bây giờ toàn shop là shop, chủ yếu phục vụ khách du lịch. Quán ăn quán cà phê luxury ice cream shop giày shop quần áo tiệm sách có tên không, hiệu lớn hiệu nhỏ đủ cả. Ngặt cái shop không tên người ta lại xếp hàng dài nhất. Đường chen chân để qua cũng có mà vắng một vài người cũng có. Nếu chỉ window shopping, lâu lâu mới ghé vào một shop, như ghé Bettys mua hai cái macaroon một mùi blackcurrant và một engadine thì chưa đầy ba tiếng đã đi hết các ngõ.
À có cả chợ. Shambles Market. Chợ ngay giữa trung tâm, ngoài trời và bán đủ thứ như các chợ ngoài trời khác trên thế giới. Sạp thịt cá rau cải, giỏ xách, đồ lưu niệm, vài xe đồ ăn nhanh.. Tôi ghé chợ khoảng ba giờ chiều, mọi người đang thu dọn chỉ còn các sạp rau cải. Đầu chợ ban nhạc với bốn anh trẻ đang đàn hát say mê, nhạc đồng quê. Lời đơn giản dễ thương kiểu " tôi vừa gặp một em gái trên phố rất lạ".
York là một trong những nơi bạn không cần bản đồ. Chỉ đi theo đám đông. Trước khi bước vào các ngõ nhỏ, khi vừa xuống xe bus tôi đã đi theo dòng người đến York Minster. Đây là lý do chính tôi ghé York, lý do phụ là City Wall. St Peter's ở Vatican hoành tráng hơn nhưng tôi không có ấn tượng bằng nơi này. Tại sao thì để có dịp ghé bạn sẽ hiểu, từ chi tiết nhỏ được chạm khắc đến những cây cột to, những mảnh kiếng màu kể từng câu chuyện.. . Chỉ là lên xuống 275 bậc thang hẹp té trong tower của nhà thờ tôi lại nhớ câu nói vẫn thường được dặn được nghe, khi bước lên mình luôn hồ hởi dù mệt muốn đứt hơi. Xuống tới mặt đất rồi mới biết bước xuống khó hơn nhiều, và đau hơn.
Mỏi chân, tôi ghé vào Costa. Gọi một ly cortado, với hạt cà phê mới từ Brazil. Em gái giới thiệu, thử đi, đắt hơn loại cũ 25pence. Được mà. Chọn một cái bàn trong góc, lấy hai cái macaroon ra. Bánh không còn nguyên dáng như lúc mua, vẫn xốp, vẫn thơm, ngọt vừa. Mid-tea.
Nếu bạn có đi lạc ngang vài bận, thấy có đứa mặt áo len xanh lá mặt không đẹp nhưng dễ thương ngồi gần cửa ra vào, cúi đầu type liên tục trên điện thoại hơn một tiếng qua cũng đừng ngạc nhiên. Em nó đang nghỉ mệt. Đau đầu...gối.
Sunday 17 December 2017
Tuesday 26 September 2017
Russian Caravan- tình cờ và kiên nhẫn
Trưa giờ cứ bị
ám ảnh câu nói hôm nay rồi sẽ là một ngày của hai mươi năm trước. Mà không chỉ
hôm nay, hôm qua hay ngày mai rồi cũng vậy. Nghe hai lần trong một tuần (mới
hiểu), đúng là trùng hợp ngẫu nhiên.
Lần đầu nghe từ một tác giả đứng trên bục chia sẻ trong buổi nói chuyện
về các chất gây nghiện đình đám gần đây. Không chỉ trong mắt người khác mà
chính cô từng tự cho mình là con nghiện nhiều năm qua. Chất cấm cô đã thử qua
phải đếm mười ngón tay thêm vài ngón chân mới hết. Bắt đầu từ sinh nhật thứ mười
lăm, hai mấy năm rồi, bây giờ cai hết chỉ còn nghiện một thứ hợp pháp là
methadone. Trở thành bạn thân với mấy bác sĩ chuyên về cai nghiện trong vùng.
Đã xuất bản mấy quyển sách. Gần đây tháp tùng các nhân viên y tế trong các cuộc
nói chuyện về chất gây nghiện, kinh nghiệm đã trải qua và đã ngả và đứng dậy ra sao. Cô nói thêm một câu
trước khi bước xuống, mỗi người không chỉ mang trên mình một danh hiệu hay biệt
hiệu (title) chuyên môn, mà nhiều lắm. Như cô là con nghiện, là kẻ cắp, là bạn,
là mẹ, là chị, là con, là em, là tác giả, là nhân viên cộng đồng… Mặc bạn là
abcd hay xyz, đều nên được đối xử như một con người và cần nhiều cảm thông cũng
như kiên nhẫn.
Lần sau nghe khi ngồi trong courtyard ăn trưa hôm thứ Sáu. Nắng đẹp, mấy
cây đào nở hoa trắng hồng ngợp trời. Mấy băng ghế chật người, chỉ còn một chỗ
trống. Tôi vừa ngồi xuống với hộp cơm ấm trong tay thì ngừơi bên cạnh cũng vừa
đặt cuốn sách quăn một góc xuống ghế và bắt đầu lên tiếng.
Đi thăm bệnh, trên đường đi ra bãi đậu xe thấy ngoài đây hoa nở đẹp quá
nên ngồi một lát. Cuốn sách đã đọc vài lần. Hai mươi năm trước thấy hay ở nhiều
đoạn mà bây giờ đọc lại không còn hay nữa, lại gặp cái hay ở nhiều đoạn khác. Lại
nói về những cuốn sách không chỉ đọc một lần. Những duyên gặp gỡ. Những đứa con
đứa cháu gần xa. Ràng buộc ra sao với người bệnh trong kia. Rồi sang chuyện hai
mươi năm trước khi ngồi trước máy tính Apple màn hình mờ căm giật giật, mấy
nhân viên của bác vò đầu tía tai ra sao. Ai ngờ hai mươi năm sau Trái Táo đủ
kiểu dáng ở khắp hang cùng ngõ hẻm. Rồi chuyện phim thời chưa có điện thoại di
động. Trong phim và ngoài đời con người ta kiên nhẫn hơn. Có chuyện gì hay đi
đâu về đâu giáp mặt mới mở lời, tình cảm tràn trề. Bây giờ chuyện vừa thấy vừa
xảy ra cả thế giới đã biết trong..vài giây.
Lại chuyển qua nói về món trà tôi từng đọc trong Slow hồi mấy tháng
trước, Russian Caravan Tea. Chưa từng uống thử. Bác là người đầu tiên nói với
tôi về nó. Thiệt lạ, biết nhưng tôi cũng chưa từng nói hay hỏi ai. Thứ trà mang
mùi khói (campfire), mùi than và mùi chocolate ra đời nhờ một sự tình cờ vào
thế kỷ 17 khi trà được xuất khẩu từ Trung Quốc qua Nga bằng đường bộ, do lạc đà
thồ. Có hai con đường để chọn, một ngắn ngày vòng xuống phía Nam quẹo lên, hoặc
lâu hơn đi thẳng lên phía Bắc qua Mông Cổ và Siberia. Đường phía Nam nóng và ẩm
sẽ làm trà dễ hư và mất mùi nên họ chọn Bắc tiến với thời tiết khô lạnh để giữ
mùi thơm. Và chẳng ai ngờ qua thời gian sáu tháng di chuyển trong thời tiết
lạnh, nhờ có tuyết, qua những buổi tối nghỉ chân bên đống lửa sưởi ấm đã làm mớ
trà khi tới Nga có mùi khói nồng từ gỗ, từ thuốc lá thấm vào cho ra mùi trà đặc
trưng chưa từng có. Ngày nay trà đen được sấy bằng gỗ thông sẽ cho ra mùi tương
tự. Thứ trà rất kén người uống, bác kết luận trước khi cầm sách đứng lên.
Như thường lệ, tôi làm việc mình giỏi nhất là lắng nghe. Vừa nhai vừa
gật gù. Nhiều câu bác nói thấy đúng quá mà đang nhai miếng thịt dai nên chỉ ậm
ừ. Chỉ trả lời khi được hỏi ý kiến. Khi nói đến đoạn về trà tôi đã ăn xong, lại
ngạc nhiên nên nói thêm vài câu, cười thêm vài miếng. Thứ Sáu thường thảnh thơi
hơn mấy ngày khác. Ăn trưa 45 phút. Hoa nở trên đầu, bóng in xuống cỏ. Nắng
đầy. Tôi luôn biết ơn những gặp gỡ tình cờ, là duyên đấy. Tự nghĩ hôm nay rồi
sẽ là một ngày của hai mươi năm trước.
Sunday 30 July 2017
Những bữa sáng ở xa, những bữa sáng ở nhà
Bữa ăn sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày. Báo đài, các bảng
quảng cáo ở trạm xe, trên các hộp cereal đều nói vậy. Nào là lần nạp năng lượng,
bữa ăn cùng cả nhả đầu tiên trong ngày, giúp năng suất làm việc cao hơn vì no
bụng sẽ tập trung hơn, giảm béo phì, giảm stress, giảm abcd..Nói chung toàn có
lợi. Không cãi nhưng cũng như tất cả các chuyện khác trên đời này, còn tùy vào
hoàn cảnh, tùy khả năng, tùy sở thích, tùy khung thời gian của mỗi người. Có
người dậy sớm điều độ mỗi ngày, thong thả ăn sáng rồi những diễn biến tiếp theo
một trình tự nhất định. Có người ăn cũng được, nhịn cũng chẳng sao, hay nhịn
riết thành quen. Có người thà ngủ thêm nửa tiếng, trên đường đi ghé ngang mua
ly cà phê vừa đi vừa uống.
Nhớ hồi nhỏ mỗi sáng trước khi đi học mẹ đã đi chợ về. Lấy ra trong giỏ khi thì miếng bánh bò nướng, khi miếng xôi đậu gói trong lá chuối, khi gói bánh hỏi thêm hai túm nhỏ nước cốt dừa với nước tương. Không nhiều không màu mè hoa lá hẹ nhưng đó là niềm vui nho nhỏ no bụng mỗi sáng. Cho đến giờ, đi nhiều, ăn đủ thứ trên đời nhưng mỗi lần nhớ lại vẫn thèm cái rìa bánh nướng giòn thơm lựng, miếng đậu phụng bùi bùi, vị béo mằn mặn của nước cốt, mùi thơm khi nhai trúng miếng hành. Bánh hỏi có thể ăn kèm rất ngon với bất cứ món thịt gì nhưng với tôi bánh hỏi ngon và hợp nhất với nước cốt dừa chan tí nước tương. Nhắc lại thèm. Dù mấy món ăn này bây giờ mua hay làm cũng dễ nhưng cái vị na ná, không nghe được mùi tuổi thơ. Tôi hay đùa mỗi khi có người nhắc lại rằng đầu lưỡi đã hết trong trẻo như hồi nhỏ, đã nếm vô số tạp chất nên cũng như mấy giác quan còn lại, đơ nhiều.
Thời gian lên cấp Hai ra phố ở với dì. Tiền chu cấp mỗi tháng một trăm ngàn, làm sao thì làm. Bữa sáng có thể vét nồi hay ăn gì đó có sẵn ở nhà, còn không tự đi mua lấy. Bữa trưa bữa chiều dì lo. Vị chi mỗi ngày ba ngàn ba, nếu ăn sáng, gởi xe, giờ ra chơi ăn thêm gì đó thì chưa đến nửa tháng đã hết. Mấy tháng đầu chưa biết tính budget nên nửa tháng sau chới với, phải cầu xin viện trợ từ nhiều phía. Bị la cứ dùng dằng cãi, giờ nghĩ lại người lớn luôn đúng (95%), mình còn may mắn hơn khối người. Sau ba tháng đầu đã khôn ra, tính toán kỹ hơn. Mỗi sáng không ăn sang mà chỉ mua ổ bánh mì không ở cái xe đầu hẻm, năm trăm. Chị chủ thấy thương nên rưới thêm miếng nước tương. Bữa nào trời đẹp, chị vui nhét thêm ba miếng dưa leo mỏng dính rồi dặn thêm “đầu tháng có lương ăn thêm thịt nghen”. “Dạ” rồi quên đó, đầu tháng ra y như mọi hôm, xin thêm miếng dưa leo, chị không nhắc gì. Về nhà cắn vào mới biết có miếng chả trong đó. Hôm trước về ghé ngang hẻm cũ, chị vẫn ở đó nhưng nhà đã xây lên hai tầng mới toanh. “Mấy đứa nhỏ gặp thời, làm ăn khá”.
Nhiều khi nhớ lại cũng vui, mới lớp Sáu ốm tong teo trước sau y chang mà trường bắt buộc mặc áo dài. Nhìn lại hình ngố ơi là ngố. Toàn ăn bánh mì không trổ mã gì nổi, anh chọc. Vậy mà ngày nào được đưa đón ngồi sau xe đạp cũng ra dáng thiếu nữ, bày đặt ngồi một bên vén tà. Đầu đường Hùng Vương có trường bộ đội/lính, trưa nào về ngang mấy anh cũng huýt sáo inh ỏi. Tưởng vì mình nên giữ mặt thẳng rất nghiêm ai dè mấy lần sau quay lại có một tốp ba bốn chị tóc dài chạy phía sau. Mới mười mấy tuổi đầu đã có dấu hiệu narci. Thiệt.
Càng lớn những bữa ăn sáng càng đa dạng. Ngọt mặn có đủ. Khi sandwich jam, khi miếng bánh ngọt, khi trái chuối, khi cháo trắng cải mặn trứng vịt muối, khi giò chả bánh mì, khi một bàn ê hề mười mấy món cứ như ăn cho cả ngày. Số ngày ăn ở góc bàn quen thuộc trong nhà bếp thưa dần. Sáng chào nhau rất nhanh, đôi khi chữ cuối câu rơi tỏm ngoài cửa. Lo chạy, lo ráo riết với đời, toàn chuyện người lớn. Nhiều khi đang ăn, vừa nhai vừa đưa miếng khác vào miệng chứ tâm trí đang ở ngoài đường hay chỗ làm, tính đi ngả nào cho tiện, mở lời làm sao trong buổi họp trưa nay…Hôm kia đọc được câu này ”Whereever you are, make sure you are there”. Tạm dịch bạn đang ở đâu thì tâm trí nên ở tại đó. Đúng lắm. Bởi vậy các lớp thiền, yoga, tịnh tâm ngày càng đông học viên là vì vậy. Dạy người ta chậm lại, ngừng lại chốc lát. Nhớ thở. Thời này không chỉ phần thân không yên mà phần tâm hay ở trạng thái di chuyển (on the move). Các quảng cáo đồ ăn sáng vẫn xài những từ “up and go”, “on the move” “coffee for busy morning”…
Còn những bữa sáng ở-nơi-không-thuộc-nhà? Ngày thường được kể như cuối
tuần, thư thả nhiều. Luôn đáng để nhắc lại, thêm động lực để hăng say cày cho
lần nghỉ kế.
Nếu để ý bạn sẽ thấy cách bày biện các thứ ở nhà hàng từ thức ăn, đồ gắp, muỗng nĩa...dành cho người thuận tay phải. Buổi sáng nọ, tôi đứng xếp hàng chờ lấy bánh mì trước một bác người Tây. Khi đến lượt thấy tôi xoay thớt bánh mì qua, bàn hơi chật nên bác nhanh tay kéo hai rổ bánh mì ngọt vừa cười vừa hỏi “Thuận tay trái à?” Tôi vừa cám ơn chưa kịp nói thêm gì bác lại lên tiếng “Người thuận tay trái thường khéo và thông minh. Obama viết bằng tay trái”, nguyên văn bác nói clever and smart. “Ủa vậy hả bác, con chỉ cầm dao bằng tay trái. Cầm viết cầm đũa đều bằng tay phải nên chỉ được nửa phần khéo và IQ trung bình”. Cả hai cùng cười. Bác rủ tới bàn ngồi ăn chung, bác gái đang chờ. Họ đến từ Copenhagen, tự làm chủ, không có con nên ít khi ở nhà. Cả bữa sáng bốn lăm phút toàn nói chuyện đi, chuyện ăn và những chuyện vui, lạ gặp dọc đường. Khi họ đưa cuốn sổ kêu tôi viết xuống vài nơi nên đi, nên ăn ở Melbourne bác trai gật gù “Nó viết tay phải thật, hèn chi nãy giờ có mấy câu hỏi nó ú ớ”. Đã nói rồi mà. Một bữa sáng cười rất nhiều.
Lần đó đi về nhằm lúc thằng cháu mới bắt đầu cầm viết. Nó cầm tay trái. Mặc cho mẹ với bà dụ cách nào chút xíu nó lại chuyền qua tay trái. Tôi kể lại chuyện gặp hai bác Đan Mạch, quất thêm cuối câu Obama cũng cầm tay trái. Nhớ hồi nhỏ có đứa bị bắt đổi qua cầm đũa tay phải nên cà lăm tới gần mười tuổi mới hết không? Thuận tay trái thấy chướng chướng, chị nói. Tay nào cũng tay, cứ để thằng nhỏ phát triển tự nhiên, đổi qua đổi lại có đứa bị mất cân bằng lại sinh tra chứng khác. Thầy đã dạy mà, nói gì ra phải có chứng cứ, mà chứng cứ càng mạnh càng dễ thuyết phục. Thế là thằng nhỏ được tha.
Nhắc Copenhagen lại nhớ bữa sáng uống bia duy nhất từ đó giờ, trong quán dưới dốc cầu. Mộc và lạ, buổi sáng quán đã đốt đèn cầy. Một ngoại lệ, vì xưa giờ chưa từng cho phép mình uống nước có cồn trước mười hai giờ trưa. Nhớ có người từng bào chữa, buổi sáng ở đây nhưng đang là chiều ở múi giờ khác. Thề sẽ không có lần thứ hai vì sau đó cứ bị ngầy ngật, mặc dù có ăn thêm chén soup gạo bí với parsley, uống hai ly cà phê chẳng ăn thua nên về khách sạn ngủ đến tối.
Đi xa có những món lần đầu tiên được thử, đảo lộn thời khóa biểu ăn
trong ngày. Sau bia, đến các món ăn sống. Lần kia đi chợ cá từ tờ mờ sáng. Chợ
nằm ngay bến cảng, thoáng, gió sớm lạnh run. Đi chợ cá nên ăn sáng bằng cá cũng
là điều dĩ nhiên. Ngon không chê vào đâu được. Cá hồi tươi thêm hành muối tiêu
để trên bánh mì, ngọt tan trong miệng. Đổi lại, cà phê nhạt thếch.
Mấy ngày ở Đà Nẵng đồ ăn sáng mê duy nhất món bánh bột lọc. Thứ bánh
trong veo với con tôm nhỏ xíu thêm chút hành phi chấm nước mắm ớt mà năm khi
mười họa ở nhà mới được ăn. Nhỏ bạn người Huế réo lại mỗi khi má nó làm. Chỉ có
bác mới làm đúng điệu, cái bánh dẹp, gói từng cái vào lá tre hay lá chuối (lá
xứ này là thứ xa xỉ). Bằng không người khác làm thô hơn, không hấp mà thả vào
nồi luộc nên đã không còn thuần bánh bột lọc.
Và món ăn sáng thứ hai chỉ tìm thấy ở Đà Nẵng và Hội An là bắp nếp luộc.
Loại bắp dẻo ngọt, nhựa nhiều mà theo chị bán nói ở Việt Nam bây giờ người ta
không chuộng nữa. Ai nấy cũng đòi ăn loại bắp hạt to nhiều nước, cạp còn lại
cái cùi xù xì (nguyên văn). Bắp Mỹ. Bắp nếp ở nhà vẫn thấy bán, đông lạnh. Chưa
từng mua.
Nhớ hồi nhỏ nhà nội trồng mấy công bắp, mỗi lần nấu cả nồi to, nhưng hiếm khi tìm được một trái không đổ nhựa. Sáng, trước thềm ba đám cháu mỗi đứa gặm một trái. Những trái đầy nhựa là trái già, ngoài chợ họ chê. Giờ ngược lại, ở chợ nên toàn mua trái ráo hoảnh, muốn ăn lại một trái đầy nhựa kiếm không ra. Vườn nhà nội bây giờ toàn bưởi với cam. Nội không còn. Cái nồi nấu bắp vẫn còn dựng ở góc bếp, khói bám đen thui. Đút thêm cây củi dừa vào, lửa than đỏ hồng, khói lơ lửng đùa qua vách. Đổ nước sôi vào tô mì. Ăn sáng.
Sunday 25 June 2017
Flamenco trong chiều Sassafras
Một cái tên nghe rất Tây Ban Nha hay ít ra cũng có bà con với
nơi nào đó ở Nam Mỹ. Sassafras. Vừa nghe người quen hỏi ủa bữa trước mới nói
chuyện Cuba nay đã đến nơi rồi à. Ừa. Mà đến vì GPS dẫn đi lạc, đi đường bộ
thay vì lơ lửng trong mây. Đùa chứ đang ở
cách nhà chừng bốn mấy cây số theo đường bướm bay. Hễ mỗi lần lên núi bạn GPS lại
say, thay vì bị ù tai thì bạn lại chỉ đường sai tùm lum tá lả. Chạy vào mấy con
đường núi hẹp cứ tưởng hai chiều xe qua không lọt. Một bên vực, một bên vách
núi. Mấy nhánh dương sỉ xòe cả ra đường như vuốt ve mé bên trái, người cầm lái
bên phải cứ thót mình, sợ nghe tiếng lẹt
rẹt khi có xe ngược chiều chạy tới. Đáng lẽ chỉ đến Olinda uống cà phê, ăn cái
bánh pie rồi về ai ngờ lạc vào một nơi rộn ràng…đa sắc.
Sassafras là tên một loài cây ấy ạ. Cây có xuất xứ cũng
không liên quan đến Tây Ban Nha mà từ Bắc Mỹ và Châu Á. Vì là loài cây có hương
thơm nên lá và rễ có nhiều công dụng như làm trà, ướp bia, lấy tinh dầu làm đèn
cầy thơm, làm kẹo… Còn thân cây được dùng để đóng tàu, làm cột nhà, bàn ghế..*
Còn phố núi Sassafras tôi qua cũng đầy ắp màu và vị như giống
cây cùng tên, từng được tìm thấy rất nhiều ở vùng này. Cái tên vùng được đặt ra
từ đó. Chỉ một đoạn đường ngắn mà có đến ba quán trà và một shop bán mấy trăm
loại trà cùng những món đồ có liên quan đến chuyện uống trà. Cũng vì thế nên phố
này còn được biết đến với nickname là “ Phố trà” (Tea town)*
Những thị trấn hay phố nhỏ luôn hấp dẫn tôi. Có lẽ do mỗi
ngày đối mặt với mớ building hiện đại bóng loáng, sự ồn ào của nhịp sống vội vã
nên mỗi lần lái xe ngang qua những dãy phố nhỏ ở các vùng xa xa tôi đều ghé lại.
Khi chạy ngang thấy căn nhà với mấy chậu hoa trên cửa sổ, mấy
đường sơn màu gỗ sậm bên ngoài, cái bảng hiệu cầu kỳ tôi đã giật mình đánh
thót. Mấy năm rồi mới được thấy lại kiểu trang trí này. Như thấy lại Mainz với
nhiều con hẻm nhỏ bày bán cà phê, đi mà cứ ngước lên nhìn mấy chậu hoa đủ màu
treo bên ngoài cửa sổ. Như Den Gamle By ở Aarhus một chiều tắt nắng với những lằn
sơn chéo sơn ngang trên từng căn nhà cổ. Ở Úc bao lâu rồi bây giờ mới bắt gặp.
Mặc dù kiểu nhà của Anh có khác mấy nơi kia nhưng nhìn thoáng qua cứ tưởng..
Dông dài nãy giờ, cái nơi gợi nhớ bao nhiêu nơi khác kia là
Miss Marple’s Tearoom. Điểm nổi bật của Sassafras về cả bên ngoài lẫn thực đơn,
và đây cũng là lý do để người ta ghé ngang. Còn mình tình cờ mới biết. Chưa từng đọc cuốn sách nào của Agatha
Christie nhưng Miss Marple thì có biết qua từ mấy series trên đài ABC. Ấn tượng
với vẻ mặt hóm hỉnh, mái tóc xoăn và nhất là cái nón vành mỏng đội hờ. Một thám
tử…rất duyên. Còn giọng Anh thì khỏi phải bàn, líu lo và khó hiểu. Vẫn hay đùa
cái giọng nghe hơi xà nẹo nên họ có đủ các loại tiệc trà để giãn ra.
Hồi đó giờ biết nhiều về high tea, đến Sassfras lại biết thêm
Devonshire tea. Nghe tên lảnh lót vậy chứ thật ra đơn giản hơn high tea nhiều,
chỉ có trà với scones (như bánh mì rất đặc làm bằng nhiều sữa và bơ) trét bơ
hay whipcream với mứt. Nghe ra mới vỡ lẽ, chê tới chê lui thì ra trưa nào ở chỗ
làm cũng được hưởng Devonshire tea mà không biết. Bởi, được nhiều quá người ta
lại chán chê là vậy.
Một chuyện giật mình khác là khi đang lơn tơn nhìn vào mấy hủ
kẹo đủ màu trước Sassafras Sweet thì nghe tiếng guitar. Quen quá, nghe như “Moonlight
Cafe”. Cứ theo tiếng nhạc mà đi tới. Đằng sau cái cổng không có vẻ gì là khoe
khoang lại là những thứ mà chủ nhân nơi đây rất tự hào. Smits&Bits. Một khoảng sân với lỉnh kỉnh các thứ dưới đất,
bên gốc cây, treo lơ lửng, treo trên vách, sau mé rào.. Những thứ này bao gồm
tượng Phật, chậu hoa, thùng rượu, cái thùng thiết nơi khói bốc lên thơm mùi
marshmallow nướng.
Còn nữa, vô số những tấm bảng treo trên miếng vách cuối vườn
với nhiều thông điệp bằng chữ và hình, từ coi chừng chó dữ đến luật lệ trong
phòng tắm đến “Wine is not the answer. It just helps you to forget the
question”. Nhiều câu đọc xong cười thành tiếng. À mà cái cây ở giữa sân nhìn
duyên nhất nơi này. Nhìn thấy giống cây họ anh đào, lá rụng gần hết, phần lá
vàng còn lại làm cho cả khu lộn xộn này trẻ lại. Chưa hết, giấu bên phía trái
sân là mấy shop đồ cũ đồ cổ từ đĩa than, sách cũ, đèn các loại và nhiều thứ khó
kiếm ở nơi nào khác. Bao hết cả không gian chẳng giống ai này là tiếng flamenco
rộn ràng của Armik dễ làm bước chân khách muốn nhịp theo. Nếu không nhìn thấy
hai mẹ con kangaroo cứ tưởng đang lạc ở Nam Mỹ thật.
P.S. Một vài hình ảnh khác ở Sassafras khiến người ta muốn quay lại. Chắc hẹn một ngày nắng khác.
* nguồn internet và dân địa phương
Tuesday 25 April 2017
Ta chọn nhau dừng lại
Đã nắm tay
nhau trong men say khi rồ dại
Môi hôn còn
thơm mùi hoa bưởi sớm maiHai đứa cộng lại đã qua vạn nẻo muôn đường
Hơn bảy tỉ người ta chọn nhau dừng lại
Phía sau lưng trăm chuyện đã từng
Đã mặc định như hạ nắng thu mưa
đêm rằm trăng tỏ
Không là ẩn dụ chẳng đánh đố gì
Một sớm quay đi
quẳng vào chân gió
Còn đường
trước mặt rủi may như cánh đồng chưa gặt
Ai chẳng nhọc
lòng lo mất trắng một maiAi chẳng cầu may cuối mùa đầy yên ấm
Thôi thì lo chi vạn dặm trước sau
Đã nắm tay nhau qua lao xao ngày nắng
Đã giữ giùm nhau vạt áo khỏi mưa mù
Đã dừng lại cùng bày áo gấm rượu hoa
Ngày tháng này ta bên người bên ta đã đủ
Sunday 16 April 2017
Ở Torcello thèm nghe vọng cổ
Nói thế nào nhỉ? Dấu vết của hiện tại, của thế kỷ
21 vẫn đầy ra đó nhưng cảnh quang làm cho người ta có cảm giác đang tuột về
hàng bao thế kỷ trước. Chẳng cần nhìn đâu xa, vừa bước lên bờ nhìn sang dòng nước
bên cạnh đã thấy vẻ xưa cũ in trong đó.
Thời gian chỉ vừa đủ để tôi đi một vòng trên đảo
Torcello, từ con kênh lớn có bến tàu đến cuối dãy đất là con kênh nhỏ buồn
thiu; cây cầu ngắn bằng hai miếng gỗ, năm sáu cây cột để buộc dây thuyền và cái
màu chiều nhờ nhờ bên kia bờ, cái bóng lưng của anh chèo thuyền ám ảnh dễ sợ. Đứng
trên bờ nhìn xa xa thèm nghe vọng cổ gì đâu. Lúc đó mà nghe Út Trà Ôn cất giọng
“ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh ngã bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy
ra chào..” chắc buồn đứt ruột.
Có lẽ vui nhất trên đảo là những gốc cây ăn trái.
Tụi nó xanh um, trái lặc lè. Táo, nho, lê, lựu.. Những trái lựu vừa chín đỏ mời
gọi; có một cây ở ngay bến tàu chào đón khách, thêm vài cây to ngay trước quán
nước duy nhất trên đảo. Quán trang trí đơn giản, bàn ghế gỗ, bên hông có thêm
giàn nho. Mấy cánh cửa sổ màu xanh trên gác mở toang, chồm ra gặp ngay hai chậu
hoa nở đầy. Đoán chủ nhân chắc dân ở đây.
Người sống trên đảo chỉ còn mười một. Vì thế dấu
chân phần nhiều là của du khách và nhân viên sáng đến chiều đi để lại. Đảo Torcello
nằm ở phía Bắc của Venice. Nhìn cảnh hiện tại ai ngờ nơi đây từng phồn thịnh và
đông dân hơn cả Venice. Người đông mà đầm
lầy cũng nhiều và chung quanh là nước nên muỗi cũng vô số. Khi dịch sốt rét lan
tràn vào thế kỷ 12, họ tản đi dần hết.
Khi bước lên tàu tôi nghĩ Murano với Burano có
ngày tôi trở lại nhưng Torcello chắc không dám. Ánh mắt là lạ không biết diễn tả
làm sao của ông già ngồi bán đồ lưu niệm trước nhà thờ Santa Maria Assunta đã theo tôi gần cả tháng sau đó. Nói đây là hòn đảo dành để viết và
quay phim kinh dị tôi không thấy lạ chút nào. Đây cũng là nơi duy nhất trong
nhiều năm qua làm tôi nghĩ tới vọng cổ và thèm nghe lại.
Sunday 2 April 2017
Những chùm gai ở Eze
Eze là một trạm dừng không định trước. Đơn giản vì thời gian hạn hẹp. Dành cho miền Nam nước Pháp chỉ có ba ngày hai đêm, định ở Nice rồi qua Monaco trong ngày về. Tham lam và tò mò không phải bệnh lây nhiễm mà ai cũng mắc phải. Thế nên có thêm Eze chen vào. Lỗi do chị chủ nhà ở Paris. Năm giờ sáng tờ mờ, gió đầy phố, chị tiễn bọn tôi trước nhà. Khi quay vào trước khi đóng cửa còn thòng thêm một câu “Ghé làng Eze đi, không đẹp sau này qua ở chị không lấy tiền”.
Làng Eze ở đâu? Một làng cổ nằm trên đồi cao bên bờ Địa Trung Hải, giữa Nice và Monaco. Nếu đi xe lửa từ Nice đến ga Eze-sur-Mer nằm sát bờ biển mất khoảng hai lăm phút, từ đó bắt bus 83 lên đến trung tâm mất thêm nửa giờ hơn và leo lên “làng” mất thêm mười lăm phút.
Buổi sáng trời nắng trong veo. Tối qua về trễ nên sáng lề mề, xuống ga đã gần mười hai giờ. Vắng, không có hàng quán gì, chỉ có tourist office nhưng chủ Nhật nên đóng cửa. Vừa bước ra ngoài xe bus cũng vừa chạy. Mỗi giờ một chuyến. Dù gì cũng phải chờ, xung quanh chẳng có gì nhiều nên bọn tôi băng qua đường định xem căn nhà màu hồng có gì trong đó. Quán ăn. Thế là kéo vào vừa trốn nắng sẵn ăn trưa luôn. Quán ăn được trang trí đơn giản, tông trắng từ tường tới bàn ghế. Khi bọn tôi vào quán đã đông người, chắc là họ cũng như bọn tôi bị trễ xe. Hỏi ra quán đã mở mười mấy năm, chủ người Ý. Ông chủ nấu ăn và hai cô con gái làm các việc còn lại. Tôi kêu một phần cá hồi nướng, ăn với rau cải chua. Cá tươi, rau tươi, nêm vừa ăn, giá rẻ hơn so với Nice và Paris.
Tuyến đường từ ga Eze lên đến trung tâm khá dốc, hẹp với nhiều cua quẹo gắt nên dễ bị say xe. Xưa giờ tôi đã ngồi xe qua nhiều đường núi chẳng hề hấn gì nhưng lần này hơi bị ngầy ngật. Một bên là núi đá, một bên vực nhìn xuống biển xanh ngắt. Đây là điểm du lịch dành cho mùa hè, hoặc trễ lắm là thu, chứ mùa đông sẽ lạnh lẽo âm u không đẹp mà đường đi lại nguy hiểm.
Làng Eze được xây vào thế kỷ 14, khoảng năm 1388, trên đồi cao cách mặt biển hơn 400m. Những vách đá, những con đường hẹp gồ ghề được xây lên như một bức tường thành để bảo vệ Eze khỏi bị tấn công, nhất là khi nơi này khá gần với Nice. Từng thuộc về nhiều nước khác nhau, cho tới ngày nay, mặc dù thuộc Pháp nhưng phần đất này như là nhịp nối giữa Pháp và Monaco, là của chung. *
Ngoài ra những bậc thang, những cánh cổng vòng cung, những bóng đèn đường, phòng trưng bày tranh, shop bán đồ lưu niệm cũng là lý do để người ta đi chậm lại. Xưa kia dân ở trong những căn nhà kín bưng, nhỏ như những cái hang này. Ánh đèn dạ lên những món đồ thành thứ ánh sáng ấm mà nếu đi nhanh nhìn lướt vào bạn có thể nhằm đó là một bức tranh. Bước đến gần mới ồ, thì ra có cánh cửa.
Nhà thờ Eglise Notre
Dame de I’Asomption nằm trên vuông đất cao nhất và cũng là biểu tượng của làng.
Phía trước là khoảng sân rộng, rồi đến khu nghĩa trang nho nhỏ. Bọn tôi đã ở
lòng vòng khuôn viên trước nhà thờ khá lâu. Hôm đó trời trong, nắng như lụa.
Nhìn xa xa không thấy được lằn ranh mây nước. Vốn từ của tôi không đủ để diễn tả
hết quang cảnh ở đây nhìn xuống. Và những người nằm xuống trong nghĩa trang kia
có lẽ đã góp phần không ít để giữ ngôi làng cổ còn vững chắc, giữ những vẻ đẹp
chung quanh và từng ngõ ngách để khi khách bước xuống những bậc thang giữa chừng
lại muốn quay ngược trở lên.
Điệu này lần sau quay lại Paris phải kiếm chị chủ nhà trả tiền để ở và được ăn cơm Việt.
(* những số liệu được lấy từ internet và trong làng)
Subscribe to:
Posts (Atom)